Ổ đĩa cứng giao diện ATAPI/IDE hiện nay phổ biến nhất là loại có tốc độ truyền tải dữ liệu UltraATA/100 (100 MB/s). Loại UltraATA/66 (66 MB/s) đã rất hiếm. Còn loại UltraATA/133 (133 MB/s) thì thuộc loại “lỡ bước sang ngang” chỉ có một mình Maxtor tự biên tự diễn. Riêng chuẩn UltraATA/33 (33 MB/s) giờ đây chỉ còn ở các ổ đĩa quang (CD-ROM, DVD-ROM, CD-RW,...).
Tuy cùng sử dụng giao diện cắm 40 chân (pin), cáp UltraATA/33 chỉ có 40 sợi dây, trong khi cáp từ UltraATA/66 trở lên có tới 80 sợi dây (trong đó có tới 40 dây đất được giải thích để tăng khả năng chống nhiễu và tăng tốc độ truyền tải cũng như độ ổn định, an toàn cho dữ liệu).


Trong ảnh : Cáp UltraATA/66 trở lên.


Cáp ATA/33 (40 sợi) đời cũ không phân biệt đầu cắm nào là Master hay Slave. Còn cáp ATA/66 trở lên (80 sợi) có màu sắc riêng cho từng chế độ thiết bị IDE. Đầu màu xanh (tức đầu cuối cáp cách đầu giữa cáp dài nhất) là để gắn vào socket IDE trên mainboard. Đầu cắm màu đen (ở đầu cáp kia) để gắn vào ổ IDE Master. Đầu cắm màu xám (ở giữa) là cho ổ IDE Slave.

Những ổ ghi đĩa CD đời cũ có thể không hoạt động chính xác nếu gắn vào cáp 80 sợi. Các ổ ghi đời mới có thể gắn vào cáp 80 sợi, nhưng cũng chỉ chạy theo chuẩn ATA/33 mà thôi.
Những điều lưu ý :
  • Xem kỹ tài liệu hướng dẫn của ổ ghi đĩa để biết nó được nhà sản xuất tối ưu hóa ở chế độ nào (master hay slave).
  • Không nên gắn ổ đĩa quang (CD-ROM/DVD-ROM/CD-RW) chung một cáp với ổ đĩa cứng vì sẽ kéo chậm tốc độ của đĩa cứng. Giống như một cỗ xe được kéo bởi 1 bên bò, 1 bên ngựa.
Trong ảnh : Sơ đồ một cấu 1 HHD và 1 ổ CD-ROM.
  • Khi gắn chung hai ổ ghi đĩa CD-RW và ổ đọc đĩa CD-ROM/DVD-ROM chung một cáp, nên cho ổ CD-RW ở chế độ Slave.
Trong ảnh : Sơ đồ một cấu hình IDE chuẩn.
  • Khi hệ thống chỉ có một ổ đĩa quang, nên cho nó hưởng cái chế độ Master ở cáp IDE thứ cấp Secondary.
Trong ảnh : Sơ đồ gắn các thiết bị IDE vào bo mạch chủ.

PHẠM HỒNG PHUỚC (A. P.)
Nguồn: PhamHongPhuoc